Khắc phục “thẻ vàng” IUU: Chuyển đổi nghề giã cào, hướng tới phát triển bền vững
Vùng ven biển của TP. Hồ Chí Minh từ lâu được biết đến là một trong những trung tâm nghề cá lớn nhất cả nước, nơi hàng chục nghìn lao động mưu sinh nhờ biển. Tuy nhiên, sau nhiều thập kỷ phát triển nóng, đặc biệt với nghề giã cào (lưới kéo) mang tính tận diệt, khiến nguồn lợi hải sản đang dần cạn kiệt, cuộc sống của nhiều ngư dân lâm vào cảnh khó khăn. Bài toán cấp thiết hiện nay không chỉ là quản lý chặt chẽ hoạt động khai thác, mà quan trọng hơn là tìm hướng đi mới, đó là chuyển đổi nghề giã cào để phát triển nghề cá bền vững, có trách nhiệm.
Cảng cá Cát Lở, phường Phước Thắng, Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh Đoàn Mạnh Dương-TTXVN

*Những mô hình chuyển đổi bước đầu hiệu quả

Tại làng chài Phước Tỉnh, xã Long Hải từng được mệnh danh là “Làng tỷ phú” với đội tàu hành nghề giã cào nhiều nhất của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trước đây, giờ đây rơi vào cảnh tiêu điều. Hàng trăm tàu giã cào nằm bờ, nhiều chiếc chủ tàu rao bán nhưng hầu như không có người mua. Ông Huỳnh Tấn Nhất, gắn bó hơn 30 năm với nghề biển, từng sở hữu 4 cặp tàu giã cào, mỗi năm thu về trên 3 tỷ đồng, thế nhưng 5 năm trở lại đây, tình hình thay đổi hoàn toàn. Mỗi chuyến biển của ông Nhất có khi lỗ tới 500 triệu đồng. Không còn khả năng cầm cự, ông buộc phải bán dần tàu để cầm cự mưu sinh.

Không chỉ riêng ông Nhất, hàng trăm ngư dân khác hành nghề giã cào vùng biển này cũng rơi vào cảnh tương tự. “Tôi bám biển hơn 40 năm nhưng chưa bao giờ thấy nghề giã cào khó khăn như hiện nay, ngư trường đánh bắt ngày càng cạn kiệt, ngư dân hành nghề giã cào ra khơi liên tục thua lỗ”, ông Nguyễn Tấn, một ngư dân lão luyện tại làng chài Phước Tỉnh, ngậm ngùi chia sẻ.

Trong lúc chờ chính sách mới hỗ trợ của Nhà nước, một số ngư dân đã chủ động tìm hướng đi khác. Ông Nguyễn Văn Nhỏ, ngụ xã Long Hải – Một ngư dân hành nghề giã cào hơn 30 năm nay nhận thấy đánh bắt giã cào không còn bền vững, nên ông đã vận động lập tổ làm chả cá, chả mực. Nhờ tận dụng nguyên liệu tại chỗ, tổ này mang lại thu nhập từ 6-8 triệu đồng/người/tháng, tạo việc làm cho nhiều thuyền viên vốn quen với nghề biển.

Tương tự, ông Võ Văn Ê, cùng ngụ xã Long Hải cũng đã chuyển sang kinh doanh hải sản khô, vừa tạo thêm thu nhập, vừa chủ động đầu ra cho sản phẩm. Ông chia sẻ: “Làm nghề này tuy vất vả nhưng vẫn gắn bó được với biển, không lo bị ép giá như trước.

Một trường hợp khác là ông Nguyễn Đình Ngọc, ngụ phường Vũng Tàu người đã bán hai tàu giã cào để đóng bốn tàu chuyển qua hành nghề lưới rê. Dù chi phí đầu tư ban đầu lên tới 6-7 tỷ đồng, nhưng hiệu quả kinh tế lại vượt trội, chi phí mỗi chuyến biển giảm một nửa, lợi nhuận tăng gấp 3-4 lần. Ông Ngọc khẳng định: “Ngư dân chúng ta phải có trách nhiệm với biển, nếu tiếp tục tận diệt thì sau này con cháu sẽ không còn gì để bám biển”.

Những mô hình chuyển đổi tuy mang lại tín hiệu tích cực nhưng vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ và chưa tạo được sức lan tỏa mạnh mẽ. Phần lớn ngư dân vẫn “án binh bất động” vì thiếu vốn, thiếu định hướng rõ ràng. Đây chính là lý do ngư dân kỳ vọng Đề án Chuyển đổi nghề cho tàu cá hoạt động ven bờ và các nghề hủy diệt nguồn lợi thủy sản trên biển TP. Hồ Chí Minh sớm hoàn thiện, đi kèm với các chính sách khả thi như: cho vay ưu đãi để cải hoán tàu, mua sắm ngư cụ mới, trang bị kỹ năng cho ngư dân trong nghề mới, từ khai thác chọn lọc đến chế biến, dịch vụ hậu cần. Cùng với đó là hình thành tổ hợp tác, hợp tác xã để ngư dân có sức cạnh tranh, đảm bảo đầu ra ổn định; khuyến khích nuôi trồng thủy sản ven bờ nhằm giảm áp lực khai thác, đồng thời mở thêm nguồn thu nhập cho ngư dân.

*Hướng đến khai thác bền vững

HCMTàu cá vươn khơi từ cảng Cát Lở, phường Phước Thắng, Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh Đoàn Mạnh Dương-TTXVN

Theo thống kê, toàn TP. Hồ Chí Minh hiện có trên có 4.638 tàu cá; trong đó, tàu giã cào còn khoảng 1.000 chiếc. Đây là nghề khai thác tầng đáy, cào quét mọi sinh vật trên biển nơi tàu đi qua. Mỗi cặp tàu trung bình có thể đánh bắt 15 tấn thủy sản sau 20 ngày ra khơi, nhưng chỉ dưới 50% sản lượng hải sản đánh bắt được có giá trị kinh tế, số còn lại chỉ làm thức ăn cho thủy sản nuôi. Nghĩa là hơn một nửa sản lượng còn lại giá trị kinh tế rất thấp, gây tổn thất nghiêm trọng cho hệ sinh thái biển.

Không ít ngư dân thừa nhận đã sớm nhận ra tính hủy diệt của nghề giã cào, nhưng việc từ bỏ nghề, chuyển đổi nghề lại không hề dễ dàng. Ông Lê Hoàng Khanh, ngư dân phường Vũng Tàu, cho biết: “Chuyển từ nghề giã cào sang nghề lưới rê hay nghề khác thì vốn đầu tư ban đầu rất lớn, mà bà con ngư dân giờ đã cạn nguồn vốn sau nhiều năm đánh bắt thua lỗ”.

Khó khăn còn đến từ sự khác biệt kỹ thuật khi máy móc, thiết kế tàu giã cào hoàn toàn khác với tàu hành nghề câu hay tàu lưới rê. Muốn chuyển đổi, chủ tàu phải cải hoán toàn bộ, đồng thời học lại kỹ năng vận hành. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn ngư dân đang gánh nợ, tự xoay sở để chuyển đổi nghề là điều gần như bất khả thi.

Trước thực trạng đó, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (trước đây) đã sớm có chủ trương dừng cấp phép đóng mới tàu giã cào từ năm 2013, đồng thời khuyến khích ngư dân chuyển đổi nghề. Sau 12 năm, đã ghi nhận kết quả đáng ghi nhận. Cao điểm, vào trước những năm 2016 có đến trên 3.000 tàu giã cào, thì đến nay đã giảm chỉ còn khoảng 1.000 tàu.

Chính quyền địa phương nhiều xã, phường ven biển và bà con ngư dân cho rằng, cần có chính sách hỗ trợ ngư dân cụ thể hơn. Nhiều ý kiến cho rằng, chuyển đổi nghề cá không thể chỉ hô hào, mà phải có cơ chế hỗ trợ về vốn, kỹ thuật để ngư dân an tâm. Cùng với đó chuyển đổi sang nghề mới hoặc sang dịch vụ hậu cần thủy sản cần đi kèm chính sách tín dụng, đào tạo nghề, để ngư dân ổn định cuộc sống trong giai đoạn chuyển tiếp.

Theo ông Nguyễn Minh Tâm, Phó Chủ tịch UBND xã Long Hải, toàn xã hiện có đến 800 tàu cá hành nghề giã cào, chiếm trên 70% số lượng tàu cá của toàn xã. Hiện nay, việc chuyển đổi ngành nghề này là vấn đề hết sức khó khăn của địa phương. Bà con ngư dân rất ủng hộ việc chuyển đổi nghề sang những ngành nghề khác. Tuy nhiên, việc chuyển đổi ngành nghề này cần chi phí rất lớn, trong khi đó nguồn lực thì địa phương không thể nào hỗ trợ được. Vấn đề này cần chính sách của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Chính phủ hỗ trợ cho bà con để chuyển đổi ngành nghề.

Bà Phạm Thị Na, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Hồ Chí Minh cho biết, hiện sở đang chỉ đạo cho Chi cục Thủy sản và Kiểm ngư tham mưu xây dựng lại Đề án chuyển đổi nghề đánh bắt tận diệt trong thời gian sớm nhất để trình UBND thành phố cho chủ trương thực hiện. Từ năm 2013, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu trước đây cũng đã có chủ trương giải bản không cho đóng mới tàu giã cào, những tàu hết niên hạn cũng sẽ xóa đăng ký và tự giải bản. Nhờ đó, số lượng tàu giã cào trên địa bàn thành phố hiện nay đã giảm đáng kể. Hiện, chúng tôi chỉ cho phát triển đóng mới những tàu cá hành nghề thân thiện, hoạt động đánh bắt và khai thác thủy sản bền vững.

Nếu làm tốt, quá trình chuyển đổi không chỉ giúp bảo tồn nguồn lợi hải sản mà còn tạo nên một nền kinh tế biển đa dạng, bền vững hơn. Có thể nói, câu chuyện nghề giã cào ở vùng ven biển TP. Hồ Chí Minh là một minh chứng rõ nét cho mối quan hệ giữa khai thác quá mức dẫn đến sự cạn kiệt tài nguyên. Khi ngư dân nhận thức được rằng việc tiếp tục “tận diệt” đồng nghĩa với tự hủy kế sinh nhai, thì chuyển đổi nghề không còn là lựa chọn, mà là con đường tất yếu.

Tin liên quan

Cương quyết, quyết liệt tuyên chiến với khai thác IUU

Chiều tối 07/10, kết luận phiên họp thứ 16 của Ban Chỉ đạo Quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định -Ban Chỉ đạo IUU, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, phải cương quyết, quyết liệt tuyên chiến với khai thác IUU, với mục tiêu chấm dứt việc khai thác IUU để Ủy ban châu Âu gỡ thẻ vàng đối với thủy sản Việt Nam trong năm 2025.

Kiên quyết tuyên chiến với khai thác IUU

Thủ tướng Phạm Minh Chính yêu cầu, phải kiên quyết tuyến chiến với khai thác IUU; khẩn trương chấm dứt tình trạng khai thác IUU, sớm đề nghị EC gỡ thẻ vàng IUU với thuỷ sản Việt Nam.

Tin cùng chuyên mục

Đồng bằng sông Cửu Long cần đột phá về hạ tầng

Tiếp tục góp ý vào Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) cần được quan tâm đặc biệt hơn trong chiến lược phát triển quốc gia, nhất là trong đầu tư hạ tầng và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao

Tổng Bí thư Tô Lâm: Đặt nền cho nhiệm kỳ mới, tạo lực đẩy cho cả một giai đoạn phát triển

Tổng Bí thư nhấn mạnh, trách nhiệm “chọn đúng người cho đúng việc”, nhất là nhân sự cấp cao, những người lãnh đạo đất nước, là điều kiện tiên quyết để đưa tầm nhìn, khát vọng thành kết quả; phải lựa chọn, giới thiệu những người xứng đáng nhất trong số những người xứng đáng tham gia Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

“Nước lấy dân làm gốc”

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác viết: “Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta”. Ðể có được chủ trương, quyết định đúng, Bác nhấn mạnh: việc gì cũng phải “Bàn bạc với dân chúng”, “Tin vào dân chúng. Ðưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết”. Tôn trọng nhân dân nghĩa là biết lắng nghe và chân thành bàn bạc với dân. “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”.

Những chuyển động mới từ Trung tâm Tài chính quốc tế Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh

Sau thời gian dài chuẩn bị về định hướng, quy hoạch và kế hoạch, Trung tâm Tài chính quốc tế Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh đang bước vào giai đoạn triển khai thực chất. Hiện, nhiều thỏa thuận hợp tác với các định chế tài chính hàng đầu thế giới cùng chương trình đào tạo nhân lực theo chuẩn quốc tế đang được xúc tiến mạnh mẽ. Những chuyển động này được kỳ vọng sẽ tạo “cú hích” mới, đưa Trung tâm Tài chính quốc tế Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh sớm đi vào hoạt động trong năm 2025.

Sức mạnh của sự đoàn kết, của tình người Việt Nam

Tình yêu thương con người ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tình cảm vừa bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương và giàu tính nhân văn. Tấm lòng nhân ái, bao dung, yêu thương con người đã làm nên giá trị tinh thần lớn lao và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quan điểm vì con người của Bác đã trở thành một triết lý nhân sinh cao cả, kết tinh từ những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại.