![]() |
Tỉnh Vĩnh Long đã đưa vào vận hành 13 nhà máy điện gió với tổng công suất 572 MW. Ảnh: Chương Đài - TTXVN |
Năng lượng phải đi trước một bước nếu Việt Nam muốn giữ vững đà tăng trưởng và thực hiện cam kết Net Zero vào năm 2050. Từ việc ban hành Quy hoạch điện VIII, thúc đẩy cơ chế PPA (hợp đồng mua bán điện) đến ký kết Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP), các chính sách lớn đang mở đường cho làn sóng đầu tư, giải tỏa nút thắt truyền tải và thúc đẩy năng lượng sạch lan tỏa từ Trung ương đến địa phương.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển tăng tốc, với mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% vào năm 2025 và tiến tới hai con số trong giai đoạn 2026–2030. Để đáp ứng nhu cầu điện dự báo tăng từ 12 - 16% mỗi năm, việc hoàn thiện và mở rộng hạ tầng năng lượng trở thành ưu tiên hàng đầu. Đây không chỉ là yêu cầu nội tại mà còn là nền tảng sống còn cho tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.Ngày 12/7/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ban hành Chỉ thị số 20/CT-TTg về “một số nhiệm vụ cấp bách, quyết liệt ngăn chặn, giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường”.
Đây không chỉ là bước ngoặt trong chính sách môi trường mà còn là một mắt xích quan trọng trong tiến trình xây dựng hệ sinh thái năng lượng bền vững. Khi các vấn đề về môi trường và năng lượng được giải quyết đồng thời, hệ thống điện quốc gia sẽ có nền tảng vững chắc hơn để phát triển theo hướng xanh - sạch - thông minh, góp phần hiện thực hóa các mục tiêu tăng trưởng, đảm bảo an ninh năng lượng và cam kết Net Zero vào năm 2050.
Từ ba chính sách lớn gồm Quy hoạch điện VIII, cơ chế PPA và Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP), Việt Nam đang định hình một nền tảng vững chắc cho quá trình chuyển dịch năng lượng. Quy hoạch điện VIII tạo hành lang pháp lý và định hướng phát triển dài hạn, ưu tiên năng lượng tái tạo và nâng cấp hạ tầng truyền tải. Cơ chế PPA mở ra thị trường điện cạnh tranh, linh hoạt, giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn điện xanh và thu hút đầu tư tư nhân. Trong khi đó, JETP mang lại nguồn vốn quốc tế và hỗ trợ kỹ thuật để giảm dần điện than, phát triển năng lượng sạch một cách công bằng và bền vững. Tổng thể, các chính sách này đang mở đường cho làn sóng đầu tư, hiện đại hóa hệ thống điện và nâng cao vị thế Việt Nam trong chuyển dịch năng lượng toàn cầu.
Những cải cách này tạo hành lang pháp lý vững chắc, thúc đẩy đầu tư tư nhân và từng bước tháo gỡ các điểm nghẽn truyền tải, nhất là tại các vùng có tỷ trọng lớn về năng lượng tái tạo.
Ở tầm quốc tế, Việt Nam là quốc gia đang phát triển đầu tiên ký kết Đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP) với nhóm G7 – một cột mốc quan trọng mở ra cơ hội lớn trong thu hút vốn xanh, chuyển giao công nghệ và hỗ trợ kỹ thuật. Đồng thời, các dự án truyền tải điện trọng điểm như đường dây 500kV mạch 3 đã hoàn thành hay các trạm biến áp liên vùng đang được đẩy nhanh tiến độ, giúp nâng cao năng lực giải tỏa công suất từ các trung tâm năng lượng lớn như Khánh Hòa và Lâm Đồng.
Trong lĩnh vực điện khí hóa lỏng (LNG), các dự án quy mô như Nhơn Trạch 3, 4 và trung tâm LNG Hải Phòng (4.500 MW) đang được triển khai khẩn trương. Phát triển LNG không chỉ giúp đa dạng hóa nguồn cung điện mà còn tạo “cú hích” công nghệ cho ngành năng lượng quốc gia, góp phần chuyển dịch từ điện than sang các nguồn ít phát thải hơn.Tuy nhiên, đà tăng trưởng năng lượng sạch cũng đối mặt không ít thách thức. Theo TS. Trần Chí Thành, Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam, việc tái khởi động chương trình điện hạt nhân tại Ninh Thuận cần sự chuẩn bị đồng bộ cả về hạ tầng, pháp lý lẫn nhân lực.
Trong khi đó, ông Nguyễn Anh Tuấn, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cảnh báo nguy cơ thiếu điện trong giai đoạn 2026 - 2028 do triển khai nguồn mới còn chậm, trong khi các chính sách về giá điện, đấu thầu vẫn chưa hoàn thiện để thu hút đầu tư.Một điểm nghẽn khác là nhân lực. Theo Cơ quan Năng lượng Tái tạo Quốc tế (IRENA), hệ thống đào tạo trong nước chưa theo kịp yêu cầu công nghệ hiện đại như điện gió, điện mặt trời. Ông Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội cho rằng cần có chiến lược phát triển “việc làm xanh”, vừa để tăng năng lực nhân sự, vừa để thích ứng với tốc độ chuyển đổi năng lượng nhanh.
Tài chính xanh cũng là một rào cản không nhỏ. Theo ông Lê Hoàng Lân (Vụ Tài chính, Tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), các dự án xanh hiện nay còn phân tán, thiếu hành lang pháp lý thống nhất, trong khi nhu cầu vốn rất lớn. TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam đề xuất cần một nghị quyết chuyên đề từ Quốc hội về phát triển năng lượng như một trụ cột kinh tế, nhằm tạo niềm tin và cơ sở pháp lý cho đầu tư dài hạn.
Trong bối cảnh phát triển năng lượng đang ngày càng được thúc đẩy, một số địa phương đã chủ động bứt phá. Tại địa bàn tỉnh Ninh Thuận cũ (đã hợp nhất vào Khánh Hòa) - vùng đất “nắng như rang, gió như phang” - trở thành điểm sáng với 57 dự án năng lượng tái tạo, tổng công suất 3.750 MW. Các doanh nghiệp như Trungnam Group, BIM Group, Thiên Tân đã đầu tư mạnh mẽ; riêng Trungnam đang nghiên cứu tổ hợp hydro xanh với công suất lên tới 824.000 tấn/năm vào năm 2050.
Dẫu vậy, thực tế cho thấy việc phát triển năng lượng tái tạo cũng đối mặt nhiều rào cản như hạn chế tải lưới; tình trạng “giới hạn công suất theo khung giờ” vẫn kéo dài. Các dự án như LNG Cà Ná (1.500 MW), thủy điện tích năng Bác Ái, điện gió ngoài khơi đang tạo nền tảng cho hệ sinh thái công nghiệp năng lượng hoàn chỉnh – bao gồm hóa chất sau muối, công nghệ xanh và tiêu thụ điện tại chỗ khoảng 2 tỷ kWh mỗi năm.
Trên nền những chính sách mới, cơ hội mở ra rõ rệt nhưng chỉ có thể chuyển hóa thành hiện thực nếu có sự phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương – địa phương – doanh nghiệp. Bảo đảm an ninh năng lượng gắn với phát triển bền vững, đạt mục tiêu Net Zero vào năm 2050 đòi hỏi hành động đồng bộ từ thể chế, vốn, công nghệ đến nhân lực./.