Chuyện về những nhà giáo “cắm bản” nơi vùng cao biên giới
Những năm gần đây, giáo dục vùng cao tỉnh Thanh Hóa đang từng bước khởi sắc, mở ra nhiều cơ hội học tập cho con em các dân tộc thiểu số.
Năm học 2025-2026 đánh dấu chặng đường gần 30 năm thầy Hoàng Sỹ Xuân, Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc bán trú- trung học cơ sở Mường Lý, xã Mường Lý gắn bó với giáo dục vùng cao Thanh Hóa. 
Ảnh: Nguyễn Nam/TTXVN

Đằng sau những thành quả ấy là sự cống hiến của những thầy cô tận tâm, bám bản, bám lớp để “gieo chữ” nơi những bản làng biên giới xa xôi.

Dành cả thanh xuân bám bản, bám lớp

Vượt qua con đường quanh co men theo sườn núi cao với những khúc cua tay áo hiểm trở, chúng tôi mới tới được Trường Phổ thông dân tộc bán trú- Trung học cơ sở Mường Lý. Trong căn phòng nhỏ vừa là nơi làm việc, vừa là chỗ ở, thầy Hoàng Sỹ Xuân – Hiệu trưởng nhà trường chia sẻ, trường nằm ngay dưới chân núi cao, mỗi mùa mưa bão, thầy và trò lại thấp thỏm lo âu trước nguy cơ sạt lở. Tháng 9/2024, nhà trường từng phải sơ tán khẩn cấp 154 học sinh từ khu ký túc xá lên các phòng học để đảm bảo an toàn. Mới đây, khi bão số 5 đổ bộ, đất đá từ trên núi tiếp tục tràn xuống, làm khu nhà ở nội trú của hơn 20 giáo viên bị uy hiếp nghiêm trọng. Toàn bộ giáo viên buộc phải rời khu nhà công vụ, người tạm trú tại nhà dân, người thu xếp ở tạm trong các phòng học cũ của trường.

Với đặc thù của một trường nội trú, thời gian các em ở trường còn nhiều hơn ở nhà, nên thầy vừa là thầy, vừa như người cha, người anh luôn tận tụy, đôn đốc, nhắc nhở các em học sinh từ học tập đến sinh hoạt hàng ngày. 
Ảnh: Nguyễn Nam/TTXVN

Cuộc sống xa nhà của những giáo viên “cắm bản” vốn đã thiếu thốn trăm bề, nay lại phải đối mặt thêm hiểm nguy do thiên tai nên càng chồng chất gian khó. Thế nhưng, vượt lên tất cả, với tình yêu nghề và tinh thần trách nhiệm, thầy cô nơi đây vẫn kiên trì bám lớp, bám trường, quyết không để việc học của học sinh bị gián đoạn.

Kể về hành trình gần 30 năm gắn bó với học sinh vùng cao Thanh Hóa, thầy Hoàng Sỹ Xuân nhớ lại: Năm 1997, vừa tốt nghiệp sư phạm, thầy đã tình nguyện lên công tác tại Trường Trung học cơ sở Mường Chanh – một trong những điểm trường khó khăn nhất của huyện Mường Lát (cũ). Sau đó, thầy tiếp tục luân chuyển, công tác đến nhiều điểm trường khác trên địa bàn.

Nhà cách trường hơn 200km, nên gần 30 năm qua, cuộc sống sinh hoạt của thầy Hoàng Sỹ Xuân gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. 
Ảnh: Nguyễn Nam/TTXVN

“Đã gần 30 năm trôi qua, nhưng tôi vẫn nhớ như in cảm giác lần đầu đặt chân đến Mường Chanh. Sau hơn một ngày di chuyển qua quãng đường hơn 200km chủ yếu là đồi núi, đèo dốc hiểm trở, trước mắt tôi hiện lên một lớp học lợp bằng tranh tre nứa lá, nằm chênh vênh trên sườn núi. Không điện, không sóng điện thoại, cuộc sống "cắm bản" của thầy và trò khi ấy gần như tách biệt hoàn toàn với bên ngoài, chỉ có núi rừng, cái đói và cái nghèo bủa vây. Đã có lúc tôi muốn bỏ cuộc nhưng hình ảnh những đứa trẻ vùng cao ăn không đủ no, mặc không đủ ấm mà vẫn khát khao được đến lớp đã níu giữ tôi ở lại. Từ đó, hành trình “gieo chữ” gian nan bắt đầu: tôi phải vượt qua rào cản ngôn ngữ khi thầy không hiểu tiếng dân tộc, trò chưa biết tiếng Việt; phải kiên trì đi từng bản, vận động từng em ra lớp, có khi vượt hàng chục cây số đường rừng trong mưa gió".

Hiện nay, đảm nhiệm vai trò lãnh đạo quản lý Trường Phổ thông dân tộc bán trú Trung học cơ sở Mường Lý với hơn 472 học sinh, trách nhiệm của thầy Xuân còn rất nhiều. Ngoài việc lo toan, chỉ đạo công tác giảng dạy, thầy còn phải chăm lo cho từng bữa ăn, từng sinh hoạt hằng ngày của học trò. Với đặc thù trường nội trú, thời gian các em ở trường còn nhiều hơn ở nhà, nên thầy vừa là thầy, vừa như người cha, người anh luôn tận tụy, đôn đốc, nhắc nhở học sinh từ học tập đến sinh hoạt hàng ngày. Những buổi tối, khi các em đã ngủ, thầy mới có thể an tâm ngồi vào bàn làm việc, soạn giáo án, lên kế hoạch giảng dạy.

Hiện nay, đảm nhiệm vai trò lãnh đạo quản lý Trường phổ thông Dân tộc bán trú trung học cơ sở Mường Lý với hơn 472 học sinh, trách nhiệm của thầy Xuân còn nặng nề hơn bao giờ hết.
Ảnh: Nguyễn Nam/TTXVN

Trăn trở về việc nâng cao chất lượng bữa ăn cho học sinh nội trú, thầy Hoàng Sỹ Xuân và các thầy cô trong trường đã tích cực kết nối, phối hợp với các đoàn thiện nguyện và tổ chức xã hội đưa dự án “Dinh dưỡng học đường” của Quỹ Hy vọng đến với học sinh. Nhờ dự án, bữa sáng của các em đã được cải thiện đáng kể với bánh mì, trứng,… giúp học sinh có năng lượng bắt đầu một ngày học tập hiệu quả.

Thầy giáo Hoàng Trọng An, giáo viên nhà trường cho biết, thầy Xuân là người luôn tận tâm với học sinh. Ở lứa tuổi còn nhiều biến động tâm lý, không ít học sinh có ý định bỏ học để lập gia đình. Hiểu rõ điều đó, năm nào cũng vậy, dù chưa hết kỳ nghỉ hè, thầy Xuân luôn là người tiên phong trở lại trường sớm, đi vào từng bản làng để vận động học sinh tiếp tục đến lớp. Với thầy trường học như ngôi nhà thứ hai, còn học sinh chính là con, là em trong gia đình.

Thông thạo 3 thứ tiếng Thái, Mường, Mông để giao tiếp với học sinh

Tốt nghiệp năm 1991, chàng trai Nguyễn Văn Nghi khi đó mới tròn 20 tuổi đã tình nguyện lên công tác tại điểm lẻ bản Tang, Trường Tiểu học xã Trung Thành, huyện Mường Lát cũ – một ngôi trường vùng cao cách nhà gần 200 km với học sinh 100% là người dân tộc Thái, Mông, Mường…

35 năm "gieo chữ" nơi những bản làng xa xôi, khó khăn nhất, thầy Nghi đã nói thông thạo 3 thứ tiếng Mường, Thái, Mông như dân bản địa. Điều này đã hỗ trợ rất nhiều trong công việc của thầy tại vùng cao này. 
Ảnh: Nguyễn Nam/TTXVN

Những ngày đầu, thầy trò không hiểu tiếng nhau, mọi việc trở nên trăm bề khó khăn. Để mang con chữ đến với các em, ngoài giờ học, thầy Nghi kiên trì dạy tiếng Việt cho học sinh, đồng thời học lại tiếng dân tộc từ chính các em. Trong ba thứ tiếng dân tộc, tiếng Mông là khó học nhất nhưng thầy vẫn quyết tâm bền bỉ luyện tập. Trải qua nhiều năm công tác, giờ đây thầy Nghi đã thông thạo cả ba thứ tiếng và tự tin giao tiếp với học sinh và phụ huynh như người bản địa.

Quãng đường từ nhà thầy ở xã Sao Vàng đến điểm trường vùng cao gần 200 km, nên mỗi năm thầy chỉ có thể về thăm nhà vài lần, vào những dịp thật đặc biệt. Chưa kể, vùng núi hiểm trở thường xuyên phải đối mặt với mưa bão, sạt lở, lũ ống, lũ quét - những hiểm nguy rình rập trên từng con đường, từng bản làng.

Những ngày đầu lên công tác, mỗi ngày chỉ có một chuyến xe từ miền xuôi lên trung tâm huyện do Công ty Xe khách Thanh Hóa khai thác. Mỗi lần về quê lên trường, thầy phải có mặt từ lúc 1 giờ để mua vé. Xe cũ, đường xấu, chen chúc không chỉ con người mà cả lợn, gà, gia súc, gia cầm; có hôm phải đi hơn một ngày mới tới nơi.

Lên công tác từ năm 1991, đến nay thầy giáo Nguyễn Văn Nghi, Hiệu trưởng Trường tiểu học Nam Tiến, xã Nam Xuân đã có 35 năm gắn bó với học sinh vùng cao biên giới Thanh Hóa. 
Ảnh: Nguyễn Nam/TTXVN

Từ năm 2002 đến nay, thầy Nguyễn Văn Nghi đã được luân chuyển công tác tại nhiều điểm trường vùng cao, gắn bó bền bỉ với học sinh nơi biên giới Thanh Hóa. Hiện nay, dù đảm nhiệm vị trí Hiệu trưởng Trường tiểu học Nam Tiến, xã Nam Xuân nhưng thầy vẫn dành thời gian trực tiếp lên lớp giảng dạy mỗi tuần một vài tiết học, để gần gũi, nắm bắt và đồng hành cùng học trò.

Dẫn chúng tôi vào thăm căn phòng nhỏ chừng 15m², vừa là nơi làm việc, vừa là nơi ở, thầy Nguyễn Văn Nghi chia sẻ những câu chuyện đời thường của giáo viên vùng cao. Tại ngôi trường này, có hàng chục thầy cô từ miền xuôi lên công tác nhưng nhà công vụ còn thiếu thốn, chật hẹp, nhiều khi không đủ chỗ cho tất cả. Thầy mong muốn trường được đầu tư thêm cơ sở vật chất để giáo viên yên tâm công tác, tập trung chăm lo cho học sinh.

Các thầy cô Trường phổ thông dân tộc bán trú- trung học cơ sở Mường Lý tận dụng hành lang nhà trường làm nơi sinh hoạt chung do khu nhà công vụ của 20 giáo viên bị sạt lở sau cơn bão số 5 vừa qua. 
Ảnh: Nguyễn Nam/TTXVN

Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã dành sự quan tâm đặc biệt cho giáo dục vùng cao, góp phần cải thiện điều kiện dạy và học ở nhiều địa phương. Tuy vậy, trên thực tế, đội ngũ giáo viên cắm bản vẫn đối mặt với không ít khó khăn: đường sá xa xôi, thiếu thốn cơ sở vật chất, nhà công vụ xuống cấp. Vì vậy, mong muốn trong thời gian tới, Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm hơn nữa đến chế độ, chính sách và đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà công vụ để giáo viên vùng cao yên tâm bám trường, bám lớp, mang con chữ đến với học sinh miền núi, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục nơi biên cương./.


Tin liên quan

Thủ tướng Phạm Minh Chính dự Lễ khởi công đồng loạt các trường học tại các xã biên giới đất liền

Thủ tướng yêu cầu các cơ quan, đơn vị thi công thực hiện 5 bảo đảm; không để xảy ra tham nhũng, tiêu cực, bảo đảm đầu tư đến đâu, hiệu quả đến đó, mang lại lợi ích thiết thực cho các cháu học sinh, các thầy cô giáo, các bậc phụ huynh, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Tin cùng chuyên mục

"Phát triển mạnh mẽ, toàn diện văn hóa và con người Việt Nam"

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, xây dựng nền văn hóa, không chỉ thuần túy quan tâm đến ngành hay lĩnh vực văn hóa riêng biệt mà phải chú trọng đến sự đồng bộ của nhiều yếu tố, từ chính trị, kinh tế, tâm lý, luân lý, xã hội. Trong “Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951”, Người viết: “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”…

Chung tay xây khát vọng - Bài 2: Khơi dậy sức mạnh Việt Nam toàn cầu

Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện có hơn 6 triệu người, sinh sống tại hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây là nguồn lực đặc biệt quý báu, là một thành phần rất quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng và Nhà nước luôn trân trọng, lắng nghe ý kiến đóng góp tâm huyết của kiều bào Việt Nam ở nước ngoài – đặc biệt là giới trí thức, chuyên gia, doanh nhân – những người có tri thức hiện đại, kinh nghiệm quốc tế và lòng yêu nước sâu sắc, là nguồn lực quan trọng góp phần vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, hội nhập sâu rộng và bền vững.

Chung tay xây khát vọng - Bài 1: Góp lửa cho ngọn đuốc dẫn đường

Đợt đóng góp ý kiến cho dự thảo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam được triển khai rộng rãi trong thời gian từ 15/10-15/11/2025 đã nhận được sự quan tâm, hưởng ứng của giới trí thức, chuyên gia, doanh nhân cùng kiều bào Việt Nam ở nước ngoài. Qua trao đổi với các phóng viên TTXVN thường trú ở nước ngoài, những ý kiến đóng góp của cộng đồng người Việt Nam phản ánh kỳ vọng vào những bước tiến mới Việt Nam từ cột mốc Đại hội XIV, cùng với tâm thế sẵn sàng góp sức vào công cuộc phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Chùm hai bài viết “Chung tay xây khát vọng”, tập hợp các ý kiến đề xuất, phản ánh tâm huyết và cam kết của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài đồng hành trong chặng đường phía trước của đất nước Việt Nam.

Từ di sản kéo co đến tương lai hợp tác văn hóa khu vực

Sau 10 năm, kể từ khi Nghi lễ và trò chơi Kéo co được ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại các cộng đồng thực hành di sản đã không ngừng phát triển. Tuy nhiên, việc gìn giữ và phát huy di sản này vẫn còn không ít khó khăn, thách thức.

Xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh

Ngày 29/9/1962, trong lần về thăm xã Quảng An, huyện Từ Liêm, (nay là phường Tây Hồ, Hà Nội), Bác căn dặn: “Con người là vốn quý nhất của xã hội, sức khỏe là vốn quý nhất của con người”. Bác coi sức khỏe của nhân dân là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Người từng nói: “Sức khỏe của cán bộ và nhân dân được đảm bảo thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công”.

Việt Nam khẳng định vị thế tại châu Á với 11 Giải thưởng ASOCIO 2025

Trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh số ASOCIO Digital Summit 2025 (diễn ra từ 11-13/11/2025 tại Đài Loan - Trung Quốc), các tổ chức, doanh nghiệp công nghệ và phi công nghệ hàng đầu Việt Nam đã được vinh danh với tổng cộng 11 giải thưởng ASOCIO Award 2025, bao gồm 10 giải thưởng cho các tổ chức, doanh nghiệp và 1 giải thưởng đặc biệt cho Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA). Thành tích này đã đưa Việt Nam trở thành nền kinh tế có số lượng giải thưởng lớn nhất, khẳng định vị thế và năng lực chuyển đổi số tại khu vực châu Á-châu Đại Dương.