| “Đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên” |
Tuy vậy, hội nhập nhưng phải dựa vào sức mình là chính, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to thì tiếng mới lớn”.
Trong quá trình đổi mới, Việt Nam đã xây dựng chính sách đối ngoại phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế, bảo đảm những nguyên tắc trên cơ sở nền tảng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm cơ sở cho việc mở rộng kinh tế đối ngoại.
Mới đây, Dự thảo Báo cáo chính trị viết: "... tăng cường quốc phòng, an ninh và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế là trọng yếu, thường xuyên". Việc Trung ương lần đầu tiên xác định "đối ngoại, hội nhập quốc tế" đặt ngang hàng với quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên đã mở ra một khung chiến lược toàn diện hơn cho công tác bảo vệ Tổ quốc, đánh dấu sự đổi mới về tầm nhìn chiến lược của Đảng trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và cạnh tranh địa chính trị, kinh tế toàn cầu ngày càng gay gắt.
Quan điểm này cho thấy rõ đối ngoại là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị chứ không phải nhiệm vụ riêng của ngành đối ngoại, trong đó ngoại giao là nòng cốt. Điều quan trọng hơn đây là vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là nguồn lực bên trong quyết định với nguồn lực bên ngoài là quan trọng.
Việc xác lập đối ngoại, hội nhập quốc tế là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên cho phép nâng cao vai trò của Bộ Ngoại giao, các cơ quan làm công tác đối ngoại và hệ thống ngoại vụ cấp tỉnh. Cơ chế "ba trụ cột" Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại sẽ thúc đẩy hợp tác liên ngành, tăng cường cán bộ chuyên trách, xây dựng đội ngũ chuyên gia ngoại giao kinh tế, văn hoá, công nghệ, kỹ thuật... nhằm chủ động khai thác cơ hội, ứng phó kịp thời, hiệu quả với các thách thức.
Quan điểm chỉ đạo này là cơ sở để tạo lập các phương thức ngoại giao, như: "ngoại giao kinh tế", "ngoại giao văn hoá", "đối ngoại quốc phòng, an ninh" "ngoại giao công nghệ"... để thu hút vốn, công nghệ, nguồn lực quốc tế và gia tăng sức mạnh mềm quốc gia. Mạng lưới ngoại giao sẽ được số hoá, tận dụng dữ liệu lớn để phân tích, dự báo, mở rộng quan hệ với các tổ chức đa phương, khối kinh tế, đồng thời phát huy vai trò các địa phương trong thúc đẩy xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, quảng bá hình ảnh quốc gia.
Có thể nói, việc bổ sung đối ngoại, hội nhập quốc tế vào nhóm nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên không chỉ thay đổi tư duy mà là đòn bẩy chiến lược, đưa đối ngoại, hội nhập quốc tế trở thành công cụ cốt lõi của an ninh quốc gia và phát triển bền vững. Sự đổi mới này khẳng định Việt Nam quyết tâm chủ động, linh hoạt và toàn diện trong vận dụng sức mạnh mềm, nâng cao vị thế trên trường quốc tế./.
Phương Dung - Thu Hạnh
