Góp ý dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Bảo vệ môi trường – nhiệm vụ trung tâm phát triển bền vững của Việt Nam
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu một bước phát triển mới về tư duy phát triển khi khẳng định: “Bảo vệ môi trường cùng với phát triển kinh tế và xã hội là nhiệm vụ trung tâm”. Đây không chỉ là sự mở rộng thêm một nội dung vào các nhiệm vụ trọng tâm, mà là bước đột phá về nhận thức lý luận, thể hiện sự chín muồi trong tư duy phát triển bền vững của Đảng, phù hợp với xu thế toàn cầu và yêu cầu của thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn mới.

*“Tăng trưởng trước” đến “phát triển hài hòa với thiên nhiên” 

GS.TS. Phạm Văn Đức, Nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. 
Ảnh Bnews-TTXVN

Trong các giai đoạn phát triển trước đây, nhiệm vụ trung tâm thường được hiểu chủ yếu là “phát triển kinh tế”, gắn liền với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Môi trường và xã hội thường được đặt ở vị trí hỗ trợ, hoặc là hệ quả cần khắc phục của tăng trưởng. Nay, với việc đặt “bảo vệ môi trường” ngang hàng với phát triển kinh tế – xã hội, Đảng ta đã thể hiện sự đổi mới căn bản trong tư duy phát triển, chuyển từ quan điểm “tăng trưởng trước, xử lý môi trường sau” sang “phát triển hài hòa, thân thiện và cùng tiến với thiên nhiên”.

Đây là bước chuyển có tính chiến lược, xuất phát từ nhận thức sâu sắc rằng: môi trường không chỉ là không gian sống, mà còn là nền tảng, điều kiện và giới hạn của sự phát triển. Phát triển kinh tế – xã hội không thể bền vững nếu không bảo đảm sự an toàn sinh thái và cân bằng tự nhiên. Tư duy “bảo vệ môi trường là nhiệm vụ trung tâm” phản ánh bước hoàn thiện trong cách tiếp cận phát triển bền vững của Việt Nam – mô hình phát triển dựa trên ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường.Trụ cột kinh tế bảo đảm tăng trưởng, tạo nguồn lực vật chất cho xã hội; trụ cột xã hội hướng tới công bằng, ổn định, phát triển con người; còn trụ cột môi trường giữ vai trò duy trì nền tảng sinh thái, bảo đảm các điều kiện tự nhiên cho sự tồn tại của cả hai trụ cột kia.

Khi môi trường được đặt ngang hàng, tư duy phát triển của chúng ta đã đạt đến sự cân bằng giữa tăng trưởng – tiến bộ xã hội – bảo tồn sinh thái, phù hợp với tinh thần của Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc và các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu.

Điều này cho thấy, Việt Nam không chỉ hội nhập về kinh tế, mà còn hội nhập về tư duy phát triển; trong đó sự phát triển phải bảo đảm “tự nhiên không bị hủy hoại, con người không bị bỏ lại phía sau”. Cách đặt vấn đề “bảo vệ môi trường là nhiệm vụ trung tâm” có ba ý nghĩa nổi bật: Đó là về lý luận, đây là sự phát triển sáng tạo tư tưởng Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Thiên nhiên là người bạn đồng hành của con người” và “phá rừng là tội ác”. Việc đặt môi trường ngang hàng với kinh tế và xã hội là sự cụ thể hóa tinh thần đó trong điều kiện mới, khi biến đổi khí hậu và suy thoái sinh thái đã trở thành thách thức sống còn toàn cầu.

Về chính trị – xã hội, đây là sự khẳng định tầm nhìn dài hạn của Đảng, hướng tới một mô hình phát triển vừa thịnh vượng, vừa an toàn sinh thái, đảm bảo lợi ích cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Tư duy này giúp củng cố niềm tin của nhân dân vào đường lối phát triển của đất nước, thể hiện tính nhân văn và trách nhiệm của Đảng cầm quyền.

Về thực tiễn, việc coi môi trường là nhiệm vụ trung tâm sẽ dẫn tới điều chỉnh sâu sắc trong chính sách phát triển, từ quy hoạch, đầu tư đến quản lý tài nguyên, nhằm tạo nên một nền kinh tế xanh, tuần hoàn và ít phát thải carbon.

Trong hai thập niên tới, quan điểm này sẽ định hình sâu sắc mô hình phát triển của Việt Nam trên nhiều phương diện như: chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng xanh – tuần hoàn – ít phát thải. Phát triển công nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ, năng lượng tái tạo, giao thông xanh sẽ trở thành động lực chủ đạo. Các ngành tiêu tốn năng lượng, gây ô nhiễm cao sẽ dần bị thay thế bằng công nghệ số, công nghệ sinh học và kinh tế tri thức.

Cùng với đó là tạo động lực cho cải cách thể chế và chính sách. Nhà nước sẽ cần xây dựng cơ chế quản trị môi trường hiện đại, minh bạch, kết hợp công cụ kinh tế (thuế carbon, trái phiếu xanh, tín chỉ phát thải) với công cụ pháp lý và công nghệ số trong giám sát.Ngoài ra là định hình lại cấu trúc phát triển vùng.

Các vùng phát triển phải dựa trên năng lực sinh thái, tài nguyên và hạ tầng môi trường. Mỗi vùng, địa phương cần có “ngưỡng phát triển bền vững”, không vượt quá khả năng chịu tải tự nhiên; thúc đẩy chuyển đổi xã hội hướng tới văn hóa sinh thái – coi lối sống xanh, tiêu dùng có trách nhiệm, tiết kiệm năng lượng và giảm rác thải là tiêu chuẩn mới của văn minh hiện đại. Những định hướng đó, nếu được thực thi nghiêm túc, sẽ giúp Việt Nam vừa đạt được mục tiêu phát triển nhanh, vừa đảm bảo “an ninh sinh thái quốc gia” – điều kiện nền tảng cho phát triển bền vững và an toàn.

*Hiện thực hóa tư duy xanh 

Để hiện thực hóa quan điểm “bảo vệ môi trường là nhiệm vụ trung tâm”, cần triển khai đồng bộ nhiều nhóm chính sách và hành động cụ thể. Theo đó, thể chế hóa và lồng ghép trong quy hoạch, kế hoạch phát triển. Mọi quy hoạch quốc gia, ngành, vùng và địa phương cần phải lồng ghép chỉ tiêu môi trường như tiêu chí bắt buộc, được thẩm định độc lập trước khi phê duyệt.

Các chỉ tiêu như tỷ lệ năng lượng tái tạo, tỷ lệ tái chế rác, chất lượng không khí, diện tích rừng, tỷ lệ sử dụng nước sạch… cần được xác định rõ ràng, gắn trách nhiệm với từng cấp chính quyền; coi việc đánh giá “năng lực chịu tải sinh thái” là điều kiện tiên quyết của mọi dự án đầu tư lớn.

Đồng thời, thúc đẩy tài chính xanh và đầu tư bền vững Xây dựng cơ chế ưu đãi thuế, tín dụng xanh, trái phiếu môi trường cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sạch. Hình thành Quỹ đầu tư phát triển xanh quốc gia, hỗ trợ chuyển đổi công nghệ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Áp dụng cơ chế định giá carbon và thương mại hóa tín chỉ carbon, vừa tạo nguồn thu cho ngân sách, vừa thúc đẩy giảm phát thải. 

Song song với đó, quản trị phát triển vùng và địa phương theo hướng sinh thái Mỗi địa phương cần có bản đồ sinh thái phát triển, xác định vùng được phép phát triển công nghiệp, vùng bảo tồn, vùng nông nghiệp hữu cơ, vùng đô thị xanh; tăng cường liên kết vùng trong xử lý môi trường, nhất là về nguồn nước, không khí, rác thải rắn và đa dạng sinh học; khuyến khích mô hình phát triển vùng dựa trên dịch vụ hệ sinh thái, ví dụ như chi trả dịch vụ môi trường rừng, du lịch sinh thái, nông nghiệp carbon thấp.

Bên cạnh đó, cụ thể hóa các chỉ tiêu môi trường trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm, cần xác định rõ các mục tiêu định lượng về môi trường: giảm phát thải khí nhà kính bình quân mỗi năm; tỷ lệ tái chế chất thải rắn; diện tích rừng tự nhiên được bảo tồn; tỷ lệ năng lượng sạch trong tổng nguồn cung; chỉ số chất lượng không khí (AQI) trung bình quốc gia;  mức độ suy giảm đa dạng sinh học…

Những chỉ tiêu này cần được công khai, giám sát độc lập và là tiêu chí bắt buộc trong đánh giá hoàn thành nhiệm vụ của các cấp chính quyền.Phát triển bền vững không chỉ là nhiệm vụ của nhà nước, mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội. Vì vậy, cần đẩy mạnh giáo dục môi trường trong nhà trường, truyền thông đại chúng, phong trào “toàn dân bảo vệ môi trường”, gắn bảo vệ môi trường với đạo đức, lối sống và bản sắc văn hóa dân tộc.

Hình thành văn hóa sinh thái Việt Nam – coi việc bảo vệ tự nhiên, tiết kiệm tài nguyên, sử dụng năng lượng tái tạo như biểu hiện của văn minh và lòng yêu nước trong thời đại mới.Hướng tới mô hình phát triển hài hòa, tự chủ và xanh, việc bổ sung “bảo vệ môi trường” cùng với phát triển kinh tế và xã hội là nhiệm vụ trung tâm trong dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng là bước phát triển có tính lịch sử trong tư duy lý luận của Đảng ta. Điều này khẳng định sự chuyển đổi mạnh mẽ từ mô hình phát triển dựa vào tăng trưởng thuần túy sang mô hình phát triển bền vững, nhân văn và có trách nhiệm.

Đây là sự lựa chọn đúng đắn, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng về tương lai đất nước, hướng tới một nền kinh tế tự chủ, một xã hội công bằng, văn minh và một môi trường trong lành – ba yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp cho Việt Nam trong thế kỷ XXI.Khi “bảo vệ môi trường” trở thành nhiệm vụ trung tâm, cũng có nghĩa là bảo vệ điều kiện sinh tồn của dân tộc, bảo vệ nền tảng cho phát triển lâu dài và hạnh phúc của nhân dân. Đó là minh chứng cho một tư duy phát triển mới – tư duy của kỷ nguyên xanh; trong đó phát triển không còn là sự đối lập với thiên nhiên, mà là nghệ thuật sống hài hòa với tự nhiên, vì con người và vì tương lai bền vững của Tổ quốc./.

GS. TS Phạm Văn Đức, nguyên Phó chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam   

Tin liên quan

Góp ý dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng: Chủ động thích ứng biến đổi khí hậu, nền tảng cho sự phát triển kinh tế - xã hội

Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng có bổ sung bảo vệ môi trường, thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, xây dựng thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn gắn với phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm. Điều này đánh dấu nhận thức sâu sắc của Đảng về phát triển bền vững dựa trên 3 trụ cột: Kinh tế - Xã hội và Môi trường.

Tin cùng chuyên mục

Vốn đúng chỗ, hộ nghèo vươn lên làm kinh tế giỏi

Xác định nguồn vốn tín dụng chính sách ưu đãi là "đòn bảy" hỗ trợ người dân vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn xóa đói giảm nghèo, Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Thanh Hóa đã bám sát các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh, nhanh chóng đưa nguồn vốn chính sách đến đúng đối tượng thụ hưởng. Nguồn vốn này không chỉ giúp người dân vùng cao có việc làm, tăng thu nhập mà còn góp phần thay đổi nhận thức, khơi dậy tinh thần vươn lên thoát nghèo bền vững.

Đồng bào K’Ho xây dựng thương hiệu cà phê OCOP

Không chỉ sản xuất nông nghiệp đơn thuần như trước đây, nhiều bà con đồng bào dân tộc K’Ho Cil (tỉnh Lâm Đồng) đã hợp sức cùng nhau canh tác theo hướng hữu cơ, xây dựng thương hiệu cà phê Chư Mui đạt chuẩn OCOP 3 sao trên cao nguyên Langbiang Đà Lạt.

Đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số

Tại Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 6/11/2025 về đẩy mạnh việc thực hiện đúng tiến độ, hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 71/NQ-CP ngày 1/4/2025 của Chính phủ và các Thông báo kết luận của Ban Chỉ đạo Trung ương, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần tập trung tối đa nguồn lực để giải quyết dứt điểm các nhiệm vụ quá hạn; Phấn đấu hoàn thành 100% khối lượng công việc năm 2025 đạt chất lượng, hiệu quả; Bộ Công an chủ trì, đẩy nhanh tiến độ triển khai các nhiệm vụ, tiện ích thuộc Đề án 06, bảo đảm vai trò nền tảng, cốt lõi của cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hệ thống định danh và xác thực điện tử; hướng dẫn, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương thực hiện việc chuyển đổi sang sử dụng VNeID là tài khoản duy nhất trong thực hiện dịch vụ công trực tuyến và các giao dịch điện tử khác; Gắn kết quả thực hiện chuyển đổi số với công tác thi đua, khen thưởng hằng năm một cách thực chất…

Hải Phòng hướng tới trung tâm năng lượng sạch của khu vực phía Bắc

Hải Phòng đặt mục tiêu trở thành trung tâm năng lượng sạch của khu vực phía Bắc, dựa trên lợi thế cảng biển, hệ thống khu công nghiệp hiện đại và hàng loạt dự án đầu tư quy mô lớn. Thành phố hướng tới phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế, đồng thời bảo vệ môi trường và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Đồng bào K’Ho xây dựng cà phê OCOP trên cao nguyên Langbiang

Không chỉ sản xuất nông nghiệp đơn thuần như trước đây, nhiều bà con đồng bào dân tộc K’Ho Cil (phường Langbiang – Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng) đã cùng nhau canh tác theo hướng hữu cơ, xây dựng thương hiệu cà phê Chư Mui đạt chuẩn OCOP 3 sao trên cao nguyên Langbiang.

Nghị quyết 68-NQ/TW: Hiện thực hóa mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp vào năm 2030

Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân là một trong những Nghị quyết trọng điểm được ban hành trong thời gian qua. Sự ra đời của Nghị quyết số 68-NQ/TW được nhìn nhận là bước tiến đột phá trong tư duy và hoạch định chính sách phát triển kinh tế trong tình hình mới với mục tiêu tạo xung lực cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ. Tuy Nghị quyết số 68-NQ/TW mới đi vào cuộc sống trong một thời gian ngắn nhưng đã tạo ra nhiều hiệu ứng và lan toả tích cực.