Nghề thủ công truyền thống góp phần tăng thu nhập cho đồng bào dân tộc thiểu số
Cộng đồng các dân tộc tại Kon Tum đang ra sức truyền nghề cho thế hệ trẻ và đưa sản phẩm đan lát thành hàng hóa nhằm tăng thêm thu nhập, hướng đến bảo tồn và phát huy giá trị ngành nghề truyền thống này.
Cộng đồng dân tộc thiểu số tại tỉnh Kon Tum tích cực bảo tồn và phát huy giá trị của nghề đan lát nhờ có thêm thu nhập từ các sản phẩm làm ra. 
Ảnh: Khoa Chương - TTXVN

Đối với cộng đồng người dân tộc thiểu số tại tỉnh Kon Tum, đan lát được xem như một trong những nét văn hóa truyền thống, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trước tình trạng nghề đan lát đang dần mất “chỗ đứng” trong quá trình phát triển, cộng đồng các dân tộc tại Kon Tum đang ra sức truyền nghề cho thế hệ trẻ và đưa sản phẩm đan lát thành hàng hóa nhằm tăng thêm thu nhập, hướng đến bảo tồn và phát huy giá trị ngành nghề truyền thống này.

Giữ gìn giá trị văn hóa

Với đa phần người dân tộc thiểu số tại Kon Tum, nghề đan lát là nét đẹp văn hóa luôn hiện hữu trong cuộc sống của đồng bào.

Già Luk (thôn Kon Tum Kơ Pơng, phường Thắng Lợi, thành phố Kon Tum) cho biết, khoảng thời gian đầu được tiếp cận nghề đan lát, ông luôn chú ý theo dõi từng cử chỉ, hành động của người lớn để học làm theo. Những chỗ không biết, ông sẽ hỏi cha, ông chỉ dạy để hoàn thiện bản thân.

Già bắt đầu tập đan lát bằng những món đồ chơi đơn giản như con chim, chuồn chuồn... Lúc rảnh rỗi, già Luk còn phụ cha mình và các già làng làm công việc chuốt nan, chẻ sợi. Già Luk luôn xem những việc này là cơ hội quý báu để trau dồi khả năng đan lát của bản thân và có thêm kinh nghiệm trong việc lựa chọn ra những nguyên liệu chất lượng, sản phẩm làm ra đạt tốt nhất. Nhờ đó, từng sợi mây, tre qua bàn tay khéo léo của ông được uốn cong, tạo hình ra sản phẩm với độ chính xác, tỉ mỉ cao.

Từng sợi mây, tre được uốn cong, tạo hình ra sản phẩm với độ chính xác, tỉ mỉ cao.
Ảnh: Khoa Chương - TTXVN

Đa phần người Bahnar khác tại thôn Kon Tum Kơ Pơng rất thành thạo nghề truyền thống là đan lát bằng mây, tre. Gần nhà già Luk có đến gần 10 người hàng xóm thành thạo đan lát. Không chỉ đàn ông, trong số này còn có những người phụ nữ đan lát rất đẹp.

Ngoài nhu cầu phục vụ hằng ngày, người Bahnar còn dùng vật dụng đan lát để trao đổi, buôn bán với các làng khác. Như việc không cần dùng tiền mặt, người Bahnar có thể mua một con gà, một kg gạo nếp hoặc thịt bò bằng việc đổi chiếc gùi, nia của mình. Bên cạnh đó, việc biết đan lát giúp người đàn ông dễ dàng thu hút sự chú ý của các cô gái trong làng bởi sự khéo léo, cẩn thận đều thể hiện ở những sản phẩm làm ra. Đây được xem như một trong những tiêu chí để kết duyên vợ chồng của người dân tộc thiểu số.

Để văn hóa trở thành hàng hóa

Đến nay, dù nghề đan lát mây tre không còn thịnh hành như xưa nhưng nhiều người dân tộc thiểu số vẫn xem như một nghề giúp họ có thêm thu nhập trang trải cuộc sống. Đơn cử, vài năm trước, nhu cầu về các sản phẩm đan lát còn cao, người Bahnar tại thôn Kon Tum Kơ Pơng (phường Thắng Lợi, thành phố Kon Tum) đã nhận đặt hàng với số lượng lớn, cùng nhau đan lát để tăng thu nhập.

Những sản phẩm đan lát trở thành hàng hóa đã giúp đồng bào dân tộc thiểu số tại tỉnh Kon Tum có thêm thu nhập. 
Ảnh: Khoa Chương - TTXVN

Già Luk chia sẻ, khi được thương lái đặt hàng, bà con trong thôn đều tập trung lại và đan lát. Mỗi người một việc thể hiện sự gắn bó của cả cộng đồng với ngành nghề truyền thống này. Trung bình mỗi ngày, một người thành thạo có thể đan được hơn 10 sản phẩm. Với giá bán từ 30-60 nghìn đồng/chiếc tùy kích cỡ, việc làm này không những tạo ra thu nhập mà còn giúp người dân có thêm động lực trong bảo tồn nghề truyền thống.

Người Rơ Ngao (một nhánh của dân tộc Bahnar) sinh sống tại làng Kon Trang Long Loi (huyện Đăk Hà) xem nghề đan lát như một nguồn thu nhập bền vững. Để có thể đan được một sản phẩm, người Rơ Ngao phải mất 3 ngày để vào rừng tìm kiếm các vật dụng như lồ ô, nứa, cây gạo, dây mây. Sau đó, họ phải mất thêm 2 ngày để trau chuốt các vật dụng và đan hoàn chỉnh sản phẩm.

Người Rơ Ngao chủ yếu dựa vào đan nia, đơm cá để kiếm thêm thu nhập. Với mức giá dao động từ 70.000 - 200.000 đồng tùy từng sản phẩm, những người dân tộc thiểu số biết đan lát có thể kiếm được khoảng 2 triệu đồng/tháng từ việc bán sản phẩm. Nhằm bảo tồn và phát huy giá trị tốt đẹp của ngành nghề truyền thống, người dân Rơ Ngao thường truyền dạy lại cho thế hệ trẻ cách đan lát, chú trọng phát triển sản phẩm phục vụ du lịch.

Các sản phẩm đan lát như cái nia, gùi lúa, đơm cá được đồng bào xem như "báu vật" trong nhà bởi những giá trị văn hóa mang lại. 
Ảnh: Khoa Chương - TTXVN

Với việc hình thành Làng du lịch cộng đồng Kon Trang Long Loi vào đầu năm 2021, sản phẩm đan lát của người dân tộc thiểu số nơi đây dần dễ dàng đến được tay du khách. Đây là điểm tựa vững chắc để người Rơ Ngao có nguồn thu nhập bền vững từ nghề đan lát; đồng thời, thúc đẩy thế hệ trẻ tiếp tục bảo tồn, giữ vững ngành nghề truyền thống.

Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Kon Tum Phan Văn Hoàng cho biết, nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của nghề đan lát truyền thống, Sở tăng cường tuyên truyền, khuyến khích người dân tiếp tục tạo ra sản phẩm chất lượng, bắt mắt. Các sản phẩm này cần hướng tới người tiêu dùng với những tiêu chí bền, đẹp, giá hợp lý nhằm mang lại nguồn thu nhập cho người dân tộc thiểu số từ đan lát. Việc có thêm thu nhập giúp người dân tộc thiểu số phấn khởi hơn trong công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống.

Thời gian tới, Sở triển khai các chương trình, dự án liên quan đến bảo tồn nghề truyền thống như: Mở lớp truyền dạy nghề đan lát cho đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh; tổ chức lễ hội truyền thống, kết hợp không gian trưng bày sản phẩm để người dân tộc thiểu số bày bán, giới thiệu và quảng bá sản phẩm đan lát. Qua đó, giúp những ngành nghề truyền thống nói chung và đan lát nói riêng dần trở lại với đời sống văn hóa các dân tộc, tạo ra bước đệm để bảo tồn, phát triển./.


Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục

Đầu tư công nghệ cao tại Việt Nam - Cất cánh trong kỷ nguyên thông minh

Nhân Hội nghị thường niên lần thứ 55 Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF Davos 55), trưa 21/1 theo giờ địa phương, tại Davos (Thuỵ Sĩ), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao phối hợp với Tập đoàn FPT và VinaCapital tổ chức toạ đàm về “Đầu tư công nghệ cao tại Việt Nam - Cất cánh trong kỷ nguyên thông minh”.

Việt Nam giữ vững vị trí đối tác xuất khẩu thủy sản lớn thứ 5 tại Singapore

Theo phóng viên TTXVN tại Singapore, trong chính sách đa dạng nguồn cung thủy sản, Singapore liên tục tìm kiếm, mở rộng thị trường nhập khẩu bằng nhiều chính sách khác nhau. Điều này khiến cho sự cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu thủy sản vào Singapore ngày càng lớn. Tuy nhiên, trong năm 2024, Việt Nam lần đầu tiên vượt qua Nhật Bản duy trì vị trí thứ 5 trong 12 tháng liên tiếp.

Thủ đô Hà Nội: Thành phố kết nối toàn cầu, có mức sống và chất lượng cuộc sống cao

Theo Quyết định số 1668/QĐ-TTg ngày 27/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065, phạm vi, ranh giới lập quy hoạch là toàn bộ địa giới hành chính Thủ đô Hà Nội, với 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 12 quận, 17 huyện và 1 thị xã. Quy mô lập quy hoạch khoảng 3.359,84 km2. Thời hạn quy hoạch trong giai đoạn ngắn hạn đến năm 2030; giai đoạn dài hạn đến năm 2045 và tầm nhìn đến năm 2065.

Phát triển hạ tầng số, năng lượng xanh để Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên thông minh

Theo đặc phái viên TTXVN, nhân dịp dự Hội nghị thường niên lần thứ 55 Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF Davos 55), trưa 22/1 theo giờ địa phương, tại Davos (Thuỵ Sĩ), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao phối hợp với Tập đoàn Sovico tổ chức toạ đàm cùng lãnh đạo các doanh nghiệp Việt Nam và quốc tế với chủ đề “Hạ tầng số - Năng lượng xanh: vươn mình trong kỷ nguyên thông minh”.

Nghị quyết 57 cho thấy xu hướng chuyển mình của đất nước

Các nhà khoa học Việt Nam kỳ vọng, Nghị quyết 57 không chỉ giải phóng sức sáng tạo, sức lao động, nguồn lực đầu tư của toàn xã hội mà còn thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Chung tay 'thả cá đừng thả túi nilon' ngày cúng ông Công ông Táo

Sáng 22/1 (tức ngày 23 tháng chạp), theo phong tục truyền thống Viêt Nam, sau khi hoàn tất lễ cúng ông Công ông Táo, cá chép được mọi người mang ra sông suối, ao hồ để thả. Vào dịp này hàng năm, giới trẻ Thủ đô lại chung tay hỗ trợ người dân thả cá giữ lại túi nilon, nhằm tuyên truyền bảo vệ môi trường.