Tư tưởng Hồ Chí Minh về hòa bình: sức sống trường tồn, vượt thời gian |
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hòa bình được biểu hiện trước hết ở tinh thần tha thiết yêu chuộng hòa bình, mong muốn, khát vọng giành độc lập dân tộc bằng phương pháp hòa bình.
Chính vì vậy mà trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người luôn kiên trì tìm kiếm, tận dụng mọi cơ hội, giải pháp ngăn chặn chiến tranh, xung đột vũ trang thông qua đàm phán, thượng lượng và chấp nhận nhượng bộ có nguyên tắc để giữ gìn hòa bình, bảo vệ độc lập dân tộc.
Năm 1919, Người đã gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Versailles, thể hiện mong muốn đấu tranh cho những quyền tự do, dân chủ tối thiểu của dân tộc Việt Nam bằng biện pháp hòa bình. Đặc biệt, trong giai đoạn 1945 - 1946, trước dã tâm cướp nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Người quyết định ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946, với những nhân nhượng có nguyên tắc để cố gắng giữ nền hòa bình mong manh cho đất nước.
Khi chiến tranh đã bùng nổ, Người vẫn tiếp tục kiếm tìm giải pháp thương lượng hòa bình. Trong thời gian ngắn (từ 12/1946 đến 3/1947), Người đã 8 lần gửi thư cho Chính phủ, Quốc hội, Tổng thống Pháp đề nghị lập lại ngay nền hòa bình - nền hòa bình trong độc lập, tự do. Nhưng do Chính phủ Pháp đưa ra những đòi hỏi hết sức vô lý nên mong muốn chân thành của Người không thể thực hiện.
Hay trong giai đoạn 1954-1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ ta cố gắng theo đuổi các giải pháp hòa bình để thống nhất đất nước song không đạt được. Nên tháng 01/1959, thời điểm thống nhất đất nước bằng biện pháp hòa bình theo Hiệp định Geneve đã qua đi gần 2,5 năm thì Hội nghị Trung ương 15 mới quyết định: “Phải qua con đường đấu tranh cách mạng bằng bạo lực để đánh đổ ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ và tập đoàn quân sự tay sai của Mỹ”.
Có thể khẳng định, tư tưởng yêu chuộng hòa bình và quyết tâm chiến đấu đến cùng để bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ hòa bình đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền cảm hứng cho toàn thể dân tộc Việt Nam trong suốt quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Tư tưởng nhân văn, nhân đạo cao cả đó của Người không chỉ là nguồn sức mạnh, động lực tinh thần to lớn để toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, làm nên một Việt Nam anh hùng trong thế kỷ XX mà sẽ mãi soi đường, dẫn lối cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
“Là một dân tộc đã trải qua muôn vàn đau thương và tổn thất vì chiến tranh trong quá khứ và cũng là dân tộc được thụ hưởng những lợi ích to lớn từ hoà bình, hợp tác hữu nghị trong những thập kỷ vừa qua, Việt Nam tha thiết mong muốn cùng cộng đồng quốc tế xây dựng một tương lai hòa bình, thịnh vượng, đoàn kết, phát triển”.
Và thực tế, Việt Nam có hơn 10 năm tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, thể hiện một Việt Nam trách nhiệm, thân thiện, nhân văn và yêu chuộng hòa bình./.
Phương Dung - Ngọc Lan