Đâu là "chìa khóa" hút vốn tư nhân cho hạ tầng Việt Nam?
Dù được xác định là động lực tăng trưởng dài hạn, đầu tư hạ tầng tại Việt Nam đang đối mặt với khoảng cách tài chính lớn khi nguồn lực công chỉ đáp ứng một phần.
Nguồn vốn tư nhân có vai trò quan trọng teobg phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam. Ản minh họa: TTXVN

Với nhu cầu đầu tư lên tới hơn 600 tỷ USD đến năm 2040, bài toán huy động vốn, đặc biệt từ khu vực tư nhân và quốc tế đang đặt ra nhiều thách thức về thể chế và công cụ hỗ trợ.

Tại Hội thảo “Thúc đẩy đầu tư hạ tầng bền vững tại Việt Nam: Công cụ bảo lãnh tín dụng - Câu chuyện thành công và Tiềm năng bứt phá”, do VIS Rating phối hợp tổ chức ở TP. Hồ Chí Minh ngày 24/9, ông Phan Đức Hiếu, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội nhấn mạnh, việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là một nhiệm vụ chiến lược, mang tính nền tảng dài hạn nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đây là giải pháp được nhấn mạnh liên tục trong các nghị quyết Quốc hội và Chính phủ từ cuối năm 2024 đến nay.

Theo ông Phan Đức Hiếu, trong bối cảnh toàn cầu đầy biến động, Việt Nam đang thể hiện rõ quyết tâm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua các giải pháp chiến lược, với trọng tâm là cải cách thể chế và đầu tư mạnh mẽ vào kết cấu hạ tầng. Chính phủ xác định đây là hai trụ cột mang tính quyết định để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng trên 8% trong năm 2025 và xa hơn là phát triển bền vững dài hạn.

Trọng tâm ưu tiên được đặt vào các công trình hạ tầng giao thông trọng điểm, liên vùng, có tác động lan tỏa lớn như: Hệ thống đường bộ cao tốc Bắc – Nam và các tuyến kết nối vùng kinh tế trọng điểm; các tuyến đường sắt tốc độ cao, đặc biệt là dự án đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam, với tổng mức đầu tư dự kiến lên tới 67 tỷ USD; hệ thống sân bay, cảng biển, đường sắt đô thị phục vụ kết nối các đô thị lớn; các dự án logistics và hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế trọng điểm… Đây đều là các dự án có quy mô lớn, nằm trong danh mục đầu tư công thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội.

Một câu hỏi lớn đặt ra là Việt Nam sẽ huy động nguồn lực ở đâu để hiện thực hóa các kế hoạch đầu tư hạ tầng quy mô lớn này?

Theo ước tính của Tổ chức Oxford Economics trong báo cáo Global Infrastructure Outlook, đến năm 2040, Việt Nam cần hơn 600 tỷ USD để đầu tư vào các cơ sở hạ tầng. Trong đó, khoảng cách tài trợ - phần vốn chưa thể huy động từ các nguồn lực hiện có ước tính lên tới hơn hàng trăm tỷ USD.

Ông Phan Đức Hiếu cho rằng, đây là một con số đầy thách thức, nhưng không phải không khả thi nếu có cách tiếp cận đúng. Ngoài ngân sách nhà nước, nguồn lực quan trọng được kỳ vọng đến từ khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài thông qua các hình thức PPP, phát hành trái phiếu hạ tầng, huy động vốn quốc tế và thiết lập quỹ đầu tư hạ tầng. Tuy nhiên, để làm được điều đó, vấn đề thể chế và sự minh bạch, hiệu quả quản trị dự án sẽ là yếu tố then chốt để tạo niềm tin và hấp dẫn dòng vốn dài hạn.

Theo ông Nishant Kumar, Giám đốc Phụ trách Khu vực châu Á của Tập đoàn Phát triển Hạ tầng Tư nhân (PIDG), trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể trong quá trình phát triển thị trường vốn, đặc biệt là đặt nền móng cho tài chính hạ tầng bền vững. Tuy nhiên, nhu cầu vốn dành cho cơ sở hạ tầng vẫn ở mức rất lớn so với khả năng huy động hiện tại.

Để lấp đầy khoảng trống này, ông Nishant Kumar cho rằng, các công cụ bảo lãnh tín dụng đang nổi lên như một yếu tố không thể thiếu. Đây không còn là lựa chọn mang tính khuyến khích, mà là yêu cầu cấp thiết nếu Việt Nam muốn huy động được dòng vốn dài hạn từ khu vực tư nhân, đặc biệt là từ các nhà đầu tư tổ chức trong và ngoài nước.

Đại diện PIDG cho rằng, các cơ chế bảo lãnh tín dụng đóng vai trò như “bảo hiểm tín dụng”, giúp giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư; đồng thời nâng cao khả năng tiếp cận thị trường vốn của các tổ chức phát hành trong lĩnh vực hạ tầng. Quan trọng hơn, cơ chế này cũng giúp tạo điều kiện để kết nối nhà đầu tư với các dự án hạ tầng, những đối tượng vốn dĩ khó tham gia nếu không có các công cụ đảm bảo này.

Tại hội thảo, các chuyên gia cũng nhấn mạnh vai trò của công cụ phát hành trái phiếu xanh trong các dự án hạ tầng bền vững. Dù số lượng doanh nghiệp phát hành trái phiếu xanh còn khiêm tốn nhưng đây là cơ hội để Việt Nam thúc đẩy thị trường này phát triển, hỗ trợ cho mục tiêu Net Zero vào năm 2050.

Theo ông Simon Chen, Giám đốc Khối Xếp hạng Tín nhiệm và Nghiên cứu của Công ty cổ phần Xếp hạng Tín nhiệm Đầu tư Việt Nam (VIS Rating), các dự án hạ tầng thường có thời gian triển khai dài hơn rất nhiều so với đầu tư thông thường của doanh nghiệp. Chẳng hạn, các dự án xây đường hay tuyến metro có thể kéo dài 10–20 năm, trong khi khoản vay ngân hàng chỉ từ 7–10 năm.

Do đó, xét về cấu trúc, ngân hàng không phải là nguồn tài trợ lý tưởng cho các dự án hạ tầng. Đây là lúc thị trường trái phiếu có thể đóng vai trò bổ sung, cung cấp nguồn vốn linh hoạt và được cấu trúc phù hợp với đặc thù của các dự án dài hạn như vậy.

Ông Simon Chen cho rằng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã có nhiều cải cách lớn trong 3 năm gần đây. Các quy định mới hiện nay đã rõ ràng hơn nhiều, tạo điều kiện để các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thị trường trái phiếu.

Tuy nhiên, để thị trường trái phiếu phát triển mạnh mẽ hơn, qua đó đóng góp thiết thực vào lĩnh vực đầu tư hạ tầng, các chuyên gia cho rằng cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng hơn cho các doanh nghiệp phát hành, nhằm giúp họ sẵn sàng tham gia thị trường.

Tại Việt Nam, nhóm nhà đầu tư tổ chức vẫn đang trong quá trình hình thành và phát triển. Ngoài các công ty bảo hiểm, hiện mới chỉ có một số quỹ trái phiếu với quy mô còn khiêm tốn. Vì vậy, việc thúc đẩy sự phát triển và mở rộng quy mô của nhóm nhà đầu tư này là điều kiện cần thiết để thị trường trái phiếu – đặc biệt là trái phiếu xanh – có thể tăng trưởng một cách bền vững…/.

Tin liên quan

Vốn vay ưu đãi - điểm tựa cho sinh viên nghèo

Đầu năm học mới, nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách Xã hội đã kịp thời tiếp sức cho hàng nghìn sinh viên có hoàn cảnh khó khăn ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Đồng Nai.

Tin cùng chuyên mục

Thủ tướng Phạm Minh Chính: Hải Phòng phải làm rõ nội hàm để xây dựng, hoàn thiện mô hình Chủ nghĩa xã hội

Thủ tướng yêu cầu Hải Phòng phát triển nhanh, xanh, bền vững, lấy con người làm trung tâm, chủ thể, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số làm nền tảng; chăm lo đời sống tinh thần, vật chất của nhân dân năm sau cao hơn năm trước - năm sau đột phá hơn năm trước;

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn: Cần Thơ khẳng định vị thế trung tâm và động lực phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long

Cần Thơ phải đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, học tập mô hình phát triển các thành phố lớn ở trong nước, khu vực và quốc tế, trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học lớn của vùng, chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo đồng bộ trong cả hệ thống chính trị và nhân dân.

Hà Tĩnh: Nhiều chương trình, phần việc chào mừng Đại hội

Trong thời gian này, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội tỉnh Hà Tĩnh đã triển khai nhiều chương trình hành động chào mừng Đại hội Mặt trận Tổ quốc các cấp và Đại hội Đảng bộ tỉnh, thể hiện tinh thần dân chủ, đoàn kết và đổi mới mạnh mẽ sau thực hiện chính quyền hai cấp.

Tiếp tục Phiên họp thứ 49 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Chiều 26/9, tiếp tục Phiên họp thứ 49, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét Báo cáo kết quả giám sát của Đoàn giám sát của Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”.

Đại hội Thi đua yêu nước tỉnh Nghệ An năm 2025

Trong 2 ngày 25-26/9, tỉnh Nghệ An tổ chức Đại hội Thi đua yêu nước năm 2025 với chủ đề “Đoàn kết, sáng tạo, đổi mới, thi đua xây dựng Nghệ An phát triển nhanh và bền vững”. Đại hội có sự tham dự của 423 đại biểu, trong đó có 166 điển hình tiên tiến.

Nghị quyết số 70-NQ/TW: Hệ thống năng lượng chuyển dịch theo hướng xanh, phát thải thấp

Ngày 16/9/2025, tại Hà Nội, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện 4 Nghị quyết của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, an ninh năng lượng quốc gia, đột phát phát triển giáo dục và đào tạo và bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân. Phát biểu và chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: Mục tiêu cốt lõi là hệ thống năng lượng phải an toàn, ổn định, có dự phòng tin cậy; cung cấp đủ cho sản xuất và đời sống; chuyển dịch theo hướng xanh, phát thải thấp; vận hành thông minh trên nền tảng số và đảm bảo chi phí hợp lý, minh bạch. Từ nay đến 2030, chúng ta phấn đấu dự phòng công suất tối thiểu 15%, giảm tổn thất điện năng đáng kể; tăng tỷ trọng năng lượng sạch phù hợp quy hoạch; xây dựng các cơ chế thị trường điện cạnh tranh, minh bạch, có lộ trình vững chắc.