30 năm bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ: Điểm sáng khắc phục hậu quả chiến tranh
Theo phóng viên TTXVN tại Washington, năm 2025 là cột mốc quan trọng đánh dấu 30 năm Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ song phương (1995–2025), đồng thời đánh dấu 50 năm kết thúc Chiến tranh Việt Nam (1975–2025). Đây không chỉ là dịp để kỷ niệm những bước ngoặt lịch sử, mà còn là thời điểm nhìn lại và tiếp tục đẩy mạnh hợp tác thực chất giữa hai quốc gia, trong đó khắc phục hậu quả chiến tranh là một trong những trụ cột quan trọng nhất. Nỗ lực của hai quốc gia từng là cựu thù này trong việc giải quyết các di sản chiến tranh, bao gồm khảo sát và xử lý bom mìn, xác minh người mất tích trong chiến tranh và xử lý ô nhiễm chất độc da cam/dioxin, đã trở thành nền tảng cho mối quan hệ Việt Nam – Mỹ phát triển lên cấp độ quan hệ đối tác chiến lược toàn diện.

Trong một video ghi hình sẵn được trình chiếu tại một hội thảo về 50 năm kết thúc Chiến tranh Việt Nam và quá trình hòa bình, hòa giải giữa hai nước, nguyên Thượng nghị sĩ Patrick Leahy, người có nhiều đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh tại Việt Nam, cho biết nhiều di sản tồi tệ nhất tồn tại rất lâu sau khi cuộc chiến đã kết thúc như ô nhiễm chất độc da cam/dioxin, bom mìn chưa được rà phá, những người bị khuyết tật nghiêm trọng về thể chất và nhận thức, hàng trăm nghìn người vẫn mất tích. Theo ông, trong suốt hơn ba thập kỷ qua, các cơ quan và thể chế của Mỹ – từ Quốc hội với cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa, đến USAID, Bộ Quốc phòng, Bộ Cựu chiến binh và Nhóm làm việc về di sản chiến tranh – đã nỗ lực chung tay để khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước xây dựng lòng tin và tái thiết mối quan hệ với Việt Nam. Ông nhấn mạnh, quá trình này đã giúp hai cựu thù trở thành những đối tác của nhau.

Nguyên Thượng nghị sĩ Patrick Leahy (trên màn hình) phát biểu trong một video được ghi hình sẵn về quá trình hòa bình và hòa giải với Việt Nam. Ảnh: Ngọc Quang-PV TTXVN tại Mỹ

Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm bom mìn nghiêm trọng, đặc biệt là các loại bom đạn chưa nổ (UXO), trong đó phần lớn là bom chùm do Mỹ sử dụng trong chiến tranh. Theo Bộ Ngoại giao Mỹ, tính đến tháng 1/2025, Mỹ là quốc gia tài trợ đơn lẻ lớn nhất cho các hoạt động khảo sát và xử lý bom mìn tại Việt Nam, với tổng ngân sách hỗ trợ vượt 250 triệu USD kể từ năm 1993.

Hai nước đã thiết lập khung hợp tác chính thức trong lĩnh vực này thông qua Biên bản ghi nhớ ký năm 2013 và được củng cố bằng một kế hoạch hành động hợp tác chuyên sâu vào năm 2023. Kể từ năm 1994, sự hỗ trợ của phía Mỹ không chỉ góp phần làm giảm đáng kể diện tích ô nhiễm UXO tại các địa phương miền Trung, mà còn giúp nâng cao nhận thức cộng đồng về rủi ro bom mìn, cải thiện sinh kế và bảo vệ an toàn cho nhiều người dân tại đây.

Kể từ năm 1991, thông qua Cơ quan Phát triển Quốc tế Mỹ (USAID), Chính phủ Mỹ đã hỗ trợ hơn 155 triệu USD nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống cho người khuyết tật tại các khu vực từng bị phun rải chất độc da cam/dioxin và chịu ảnh hưởng bởi UXO. Hợp tác giữa hai bên trong lĩnh vực này không ngừng được mở rộng cả về quy mô lẫn chiều sâu. Đáng chú ý, từ năm 2011 đến 2017, Việt Nam và Mỹ đã phối hợp triển khai thành công Dự án xử lý ô nhiễm dioxin tại sân bay Đà Nẵng với kinh phí 110 triệu USD do phía Mỹ tài trợ. Hiện nay, hai bên đang tiếp tục triển khai một dự án xử lý môi trường quy mô lớn hơn tại sân bay Biên Hòa, kéo dài trong 10 năm (2019–2029), với tổng ngân sách lên tới 450 triệu USD.

Chia sẻ với phóng viên bên lề hội thảo, nhà nghiên cứu Charles Bailey, đồng tác giả cuốn sách “Từ kẻ thù đến đối tác: Việt Nam, Mỹ và chất độc da cam”, nhấn mạnh dù chiến tranh đã lùi xa nửa thế kỷ, những di sản đau thương của nó – đặc biệt là chất độc da cam và UXO – vẫn cần được tiếp tục giải quyết. Ông cho rằng còn nhiều công việc phải làm, từ rà phá bom mìn, hỗ trợ nạn nhân, đến phối hợp tìm kiếm và xác định hài cốt lính mất tích trong chiến tranh.

Bày tỏ quan tâm đặc biệt tới các nạn nhân là người trẻ tuổi – những người đại diện cho tương lai của Việt Nam – ông Bailey nhấn mạnh sự cần thiết phải tiếp tục hỗ trợ họ, cả về vật chất và năng lực cộng đồng. Ông đánh giá cao những nỗ lực lâu dài và quy mô lớn của Chính phủ Việt Nam trong việc trợ giúp các nạn nhân, đồng thời cho rằng sự hỗ trợ từ phía Mỹ – thông qua các chương trình xây dựng năng lực và hỗ trợ trực tiếp – vẫn mang ý nghĩa hết sức thiết thực, giúp các gia đình vượt qua khó khăn và hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước. Với ông, không để ai bị bỏ lại phía sau chính là thông điệp nhân văn cốt lõi của hợp tác song phương trong khắc phục hậu quả chiến tranh.

Nhà nghiên cứu Charles Bailey, đồng tác giả của cuốn sách "Từ kẻ thù đến đối tác: Việt Nam, Mỹ và Chất độc màu Da cam". Ảnh: Ngọc Quang- PV TTXVN tại Mỹ

Ông Bailey cho rằng Mỹ nên tiếp tục công việc rất quan trọng là xử lý dioxin cho đến khi hoàn thành hoàn toàn, giống như đã kiên trì xử lý xong ô nhiễm dioxin ở sân bay Đà Nẵng vào năm 2017. Tại sân bay Biên Hòa, việc xử lý lượng đất ô nhiễm dioxin sẽ mất nhiều thời gian hơn, có thể 10 năm. Giai đoạn 1 sẽ kéo dài đến năm 2027 và sau đó vẫn còn nhiều việc phải làm. Ông Bailey cho rằng công tác trên cần được hoàn tất bởi điều này có vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa Việt Nam-Mỹ.

Kỷ niệm 30 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao là cơ hội để Mỹ và Việt Nam tái khẳng định cam kết trong lĩnh vực nhân đạo, đồng thời điều chỉnh chiến lược hợp tác theo hướng phát triển bền vững để lĩnh vực này trở thành minh chứng cho khả năng hòa giải và phát triển toàn diện./.

Ngọc Quang – Hồng Nguyên

Tin cùng chuyên mục

30 năm bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ: Tin tưởng tương lai tươi sáng của quan hệ song phương

Nhân kỷ niệm 30 năm Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ song phương (11/7/1995 – 11/7/2025 theo giờ Mỹ, tức 12/7/1995 – 12/7/2025 theo giờ Việt Nam), cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam David B. Shear (nhiệm kỳ 2011–2014) và các bạn trẻ người Mỹ đã chia sẻ nhận định về những tiến triển ấn tượng của quan hệ song phương, đồng thời bày tỏ tin tưởng vào tương lai tươi sáng của mối quan hệ này.

Việt Nam - Điểm đến ưa thích hàng đầu của người Australia

Theo phóng viên TTXVN tại Sydney, trang tin Sky News (Australia) mới đây đăng bài viết cho biết khi du khách Australia muốn tìm kiếm “những cuộc phiêu lưu văn hóa có ý nghĩa”, Việt Nam đã được họ đưa vào đầu danh sách bởi du lịch ở quốc gia Đông Nam Á này có chất lượng tốt và giá rẻ hơn so với bất kỳ điểm đến phổ biến nào khác.

Đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thành “tự giác”, “tự nguyện”, “cơm ăn nước uống, áo mặc hàng ngày”

Bác Hồ đã nhiều lần giải thích rõ về tiết kiệm để mọi người hiểu cho đúng, để thực hiện cho tốt: “Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết chống xa xỉ… Xa xỉ có tội với Tổ quốc, với đồng bào”.

Phát huy vai trò và sức mạnh của kiều bào với quê hương, đất nước

Trong hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò vô cùng quan trọng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Bác đã tích cực tuyên truyền, vận động, thành lập các cơ sở cách mạng ở Pháp, Trung Quốc, Thái Lan và một số nước khác với sự đùm bọc, chở che của bà con Việt kiều để phục vụ cho cách mạng.

Để hàng Việt trụ vững trên “sân nhà”

Thị trường nội địa với hơn 100 triệu dân rất tiềm năng cho các doanh nghiệp Việt trong bối cảnh xuất khẩu bất ổn. Dù vậy, thay vì là vùng đất cho doanh nghiệp bứt phá, thì lại đang bị bủa vây bởi hàng hóa không rõ nguồn gốc, khiến không ít doanh nghiệp chân chính đuối sức, không thể cạnh tranh. Tiếp sức trong hành trình chinh phục “sân nhà” của các doanh nghiệp Việt cần biện pháp mạnh làm sạch thị trường, và mở rộng kênh phân phối, giúp hàng Việt tiếp cận người tiêu dùng. Phủ sóng hàng Việt cũng là cách để đẩy lùi hàng giả, hàng nhái

Thế hệ trẻ Việt Nam bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc

Sớm xác định văn hóa là những điều tốt đẹp gắn liền với đời sống của con người, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng, của sự phát triển, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với việc xây dựng nền văn hóa nói chung và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng.